4/8/14

Huyền thoại Đương Quy

Theo Trung dược, Đương Quy ngày xưa được coi là vị thuốc chính của phụ khoa hay sản khoa, chuyên trị bần huyết, đau bụng, kinh nguyệt không đều. Và cho đến bây giờ vẫn còn dùng để chuyên trị các chứng ấy. Một số lớn phụ nữ sau 40 tuổi thích dùng Đương Quy điều chỉnh huyết mạch để được thoải mái trong những ngày có kinh.

Dưới triều nhà Minh (1868) Trung Hoa có rất nhiều lối giải thích cho tên của vị thuốc này. Ngày xưa đàn ông cuới vợ mục đích chính là để sinh con nối dỏi tông đường, nên việc điều chỉnh khí huyết cho phụ nữ vẫn là một môn quan trọng hàng đầu trong y giới vì thế ý nghĩa đầu tiên của chữ Đương Quy là “ Tưởng phu” nôm na là nhớ chồng.

Trung y thường hay dùng chữ “huyết khí”. Nếu khí thể lưu chuyển trong huyết dịch không lưu thông tuần hoàn đều đặn được, thì dễ sinh ra một chứng gọi là “bệnh khí” mà danh từ Trung y đã có từ nghìn xưa. Đương Qui được coi là vị thuốc điều chỉnh cả khí lẫn huyết.

Người bệnh sau khi dùng Đương Quy, khí huyết trở về đường vận chuyển cố định của mình, tên Đương Quy còn có nghĩa là “Trở về” cũng do đó mà ra.

Nhưng dưới triều Minh, một huyền thoại về nguồn gốc tên của vị thuốc Đương Quy đã được phổ biến rộng rãi. Truyện kể rằng ngày xưa cạnh sông Bạch Long Giang, thuộc tỉnh Cam Túc, có một làng rất trù phú. Cạnh làng là núi Đại Sơn hùng vĩ thâm nghiêm vì bị rừng rậm bao quanh. Khu rừng núi này là một kho tàng dược thảo hiếm quí, nhưng cũng rất nguy hiểm vì trong rừng đầy những thú dữ và rắn độc, làm quanh năm không ai dám vào rừng săn bắn hay hái thuốc.

Một hôm trai làng họp nhau giải trí, bàn tán thiên hạ sự. Câu chuyện từ văn chương, thơ phú, đến võ nghệ, đến tướng số, phụ nữ..... dần dần xoay ra bàn về sự can đảm của đàn ông.


Đấy là đám thanh niên ưu tú nhất làng, xưa nay ai cũng cho mình can đảm anh hùng. Nếu lỡ bị chê nhu nhược thì đó là một điều đại sỉ nhục.


Cãi nhau suốt nửa ngày, ai cũng khoe những thành tích dũng cảm của mình, không anh nào chịu thua, chịu nhường anh nào. Khi họ sắp đánh nhau để giải quyết thì có người đề nghị tìm cách thử can đảm cả bọn mới yên.

Cách thử là ai dám vào tận trung tâm núi Đại Sơn rồi trở về, thì sẽ được công nhận là người dũng cảm nhất.

Cả một đám thanh niên cường tráng trước đấy mấy phút, nhiệt khí bừng bừng, múa tay đập chân, ai cũng xưng mình là người hùng, bây giờ bỗng thành hiền từ, nhường nhịn khiêm tốn ra mặt.

Trong yên lặng đầy khách khí ấy bỗng nghe có tiếng nói:

- Được rồi! Tôi bằng lòng đi.

Tất cả đều quay nhìn Vương Dũng, con người nho nhã, rất ít nói mới cưới vợ là cô Hồng đẹp nhất làng.

Khi mọi người thấy Vương Dũng, chàng thanh niên xưa nay tính tình rất hiền hậu nhã nhặn xin đi thì đều cố sức ngăn cản:

- Ai đi cũng được, Vương Dũng không nên đi.

- Vương Dũng mới cưới vợ, bộ anh điên à !

Các bạn đều cho là Vương Dũng nói đùa, có ai điên hay ngu mới dám vào núi Đại Sơn.

Có tiếng người nói:

- Các anh khỏi phải can, Vương Dũng chỉ nói dốc chơi mà thôi. Phải không Dũng. Anh dám bỏ vợ đẹp mới cưới ở nhà để vào rừng cho cọp ăn sao. Bỏ vợ cho ai?

Mọi người nghe thế đều cười, thôi can ngăn và xoay ra chế nhạo Vương Dũng.

Chàng thanh niên vốn yếu đuối, hiền lành ngày thường, bây giờ bị chạm tự ái nên giận dữ đứng dậy nói:

- Quân tử nhất ngôn. Các anh cứ mở to mắt mà xem!

Nói xong, Vương Dũng về nhà sửa soạn hành trang vào rừng. Mặc dầu mẹ và vợ Dũng hết sức can ngăn nhưng Dũng nghĩ rằng một lời hứa quyết liệt đã nói ra trước mặt anh em, thì không thể nào rút lui, như thế tỏ ra mình nhu nhược. Để mặc mẹ buồn vợ khóc, Vương Dũng sửa soạnlương thực, cung tên, giáo mác.

Trước khi lên đường, anh nói với mẹ và vợ:

- Xin mẹ tha tội bất hiếu cho con. Nếu 3 năm mà con không trở về thì coi như con chết rồi. Mẹ cho vợ con đi lấy chồng khác. Còn em, sau 3 năm, mẹ bảo sao, em phải nghe vậy!

Vương Dũng nói xong chạy vội đi để khỏi trông thấy cảnh mẹ và vợ khóc than buồn rầu.
Từ ngày Vương Dũng vào rừng, nhà chỉ còn hai người đàn bà. Mẹ chồng và nàng dâu, ngoài thương nhớ khóc than, còn phải làm ruộng làm rẫy để sinh sống.

Thời gian qua mau, kỳ hẹn ba năm đã đến. Hồng chờ đợi thương nhớ và làm lụng khổ sở quá nên đâm ra chán đời. Nàng sợ cuộc sống cô đơn vật lộn một mình. Tinh thần Hồng xuống thấp, khí huyết trì trệ, bất hòa, ăn ngủ không được, nên dần dần thành bệnh. Chứng bệnh khí huyết suy nhược mà Trung y gọi là “ Dị thường bế kinh”.

Mẹ Vương Dũng là một bà mẹ hiền. Từ ngày con bỏ nhà ra đi, bà với nàng dâu sống đùm bọc nhau, bây giờ ngoài thương nhớ con, làm lụng vất vả, còn phải săn sóc thuốc thang cho nàng dâu bệnh hoạn, nhưng bà vẫn gắng chịu không hề than van.

Sau ba năm chờ đợi trong tuyệt vọng, một hôm bà mẹ bảo con dâu:

- Mẹ con ta chờ đợi hơn 3 năm rồi. Nếu còn sống thì chồng con phải về từ lâu. Nay đã quá kỳ hạn, chồng con nhất định là chết rồi. Ta cho phép con đi lấy chồng khác để có nơi nương tựa, và ta cũng bớt mệt nhọc. Ta vừa làm lụng vất vả, vừa lo lắng săn sóc con nay đau mai ốm. Cái thân già này cũng đã mệt mõi lắm rồi.

Ban đầu Hồng không chịu, cũng như suốt 3 năm qua, nàng đã từ chối tất cả những mối manh xin cưới của trai làng, vì ai cũng biết đã vào rừng Đại Sơn là không có người nào trở về được nữa. Hồng chắc chắn đã thành quả phụ. Mọi người đều chấp nhận ngày ra đi của Dũng được coi như là ngày giỗ.

Riêng Hồng mặc dầu rất yêu chồng nhưng, chờ mãi không được, lại thấy mình hay đau ốm, cũng là một gánh nặng cho mẹ chồng, Hồng đành vâng lời lấy một người đứng tuổi góa vợ trong làng.

Nhưng rồi chuyện bất ngờ đã xảy ra, Hồng lấy chồng chưa được bao lâu, thì bỗng chàng trai trẻ ngày xưa từ trong rừng núi bí hiểm đột ngộthiện ra, rồi băng băng chạy về nhà. Đó là Vương Dũng, vừa chạy vừa gọi mẹ và vợ không ngớt.

Khi Dũng bước vào nhà thì mọi vật đều thay đổi làm anh ngẩn ngơ.Gian nhà sạch sẽ rộng rãi, đầy quí vật ngày xưa bây giờ tường mốc, rêu phong. Trong nhà trống trơn không đồ đạc, một cụ già ốm yếu ho hen đang ngồi ngẩn ngơ nhìn như không biết Dũng là ai. Còn người vợ trẻ đẹp mới cưới ngày xưa thì không thấy bóng dáng đâu cả.

Đầu óc Dũng quay cuồng tự hỏi:

- Đây là nhà của tôi sao? Bà già này là mẹ tôi phải không? Thế còn vợ tôi đâu?

Chỉ sau mấy năm vắng con, mẹ Vương Dũng đã như già đi cả chục tuổi. Bà kể cho Dũng nghe những chuyện xảy ra trong thời gian vắng nhà... sinh hoạt khổ sở... hết tin tưởng con còn sống... Nàng dâu bệnh hoạn phải cho cải giá...

Nghe xong, bao nhiêu chí khí anh hùng của Vương Dũng tiêu tan hết.Ngày nào hăm hở xung phong vào núi Đại Sơn chỉ vì vài lời nói khích, vì muốn được danh xưng can đảm nhất làng.

Nay vợ mình thành vợ người. Vương Dũng hết muốn làm anh hùng, ngồi ôm đầu gục mặt khóc như một đứa trẻ con.

Vương Dũng nhờ bạn bè đưa tin cho vợ biết mình đã trở về và xin gặp mặt một lần để tạ lỗi. Còn vợ Vương Dũng nghe tin gần phát điên.Nàng hối hận và tự trách mình. Hơn 3 năm thương nhớ, đã từ chối tất cả những trai làng xin cưới, để đến phút cuối cùng vâng lời mẹ ra đi, thì chồng lại trở về. Chịu không nổi ray rứt hối hận, Hồng bỏ ăn, bỏ ngủ và bệnh cũ lại tái phát

Còn gặp nhau làm gì khi tất cả đều đã quá muộn, và không còn cách gì vớt vát được. Thời gian có bao giờ trở lại cho một người xử sự cách khác để có một cơ hội khác đâu! Còn gặp làm gì!

Bệnh tình của Hồng càng ngày càng nặng. Các thầy lang đều chạy hết.Các thầy chỉ thương cảm nhìn Hồng, lắc đầu nói:

"Bây giờ chỉ còn nhờ Trời!"

Vương Dũng nghe được tin ấy bèn lấy bao thuốc của anh đã hái đào được trong núi Đại Sơn, chọn một số rể cây thuốc, nhờ bạn đem đến trao cho người chồng mới của Hồng và chỉ bảo cách dùng.

Sau một thời gian uống thuốc của Dũng cho, Hồng dần dần khỏe mạnh, bớt bệnh rồi khỏi hẳn

Người chồng mới của Hồng là một người đã lớn tuổi, rất thương cảm Hồng bị chồng bỏ nhà ra đi, ốm đau bệnh hoạn nên đã cưới Hồng để mong làm cho cuộc đời hai người bớt cô đơn. Nhưng anh ta cũng biết rõ mối tình nồng nàn của Vương Dũng với Hồng và sự chờ đợi kiên trinh nhẫn nại của Hồng. Cưới được nàng, anh cho mình may mắn nhất đời. Vì Hồng vừa xinh đẹp vừa hiền thục. Nhưng giờ đây anh không muốn hạnh phúc của mình xây dựng trên sự đau khổ của người khác. Và anh quyết định trả Hồng lại cho Dũng.

Câu chuyện bi thương ly hợp này được truyền tụng đi khắp nơi trong nước, ai nghe cũng cảm động và đồng ý rằng người đàn bà thương yêu chồng nồng nàn nên được tái hợp, nên “Đương Quy”,nghĩa là nên trở về với chồng.

Vậy Đương Quy trong ngôn ngữ phổ thông là nên về. Qui gia, về nhà, qui phu, về với chồng, hay qui phụ về với vợ. Và cho đến bây giờ, huyền thoại Đương Quy vẫn còn được lưu truyền trong dân gian.

Huyền thoại chưa chắc đã có thực, nhưng tất cả đã xây dựng chung quanh xúc động chân thành của mọi thứ tình cảm, mà trong đó tình người là một thứ bất diệt với thời gian. (theo tài liệu Đông Y)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét